Báo cáo tình hình kinh tế – xã hội quý IV và năm 2005

 

Tình hình kinh tế tài chính năm 2005 diễn ra trong những điều kiện kèm theo khó khăn vất vả cả trong nước và trên quốc tế. Trong nước, thời tiết so với nhiều địa phương không thuận : sáu tháng đầu năm hạn hán lê dài, lượng nước thiếu vắng không những gây khó khăn vất vả cho sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy hải sản, mà còn tác động ảnh hưởng đến sản xuất điện và nước hoạt động và sinh hoạt của dân cư ; 6 tháng cuối năm, mưa lớn, bão số 7 và bão số 8 làm ngập nhiều diện tích lúa mùa ở miền Bắc, miền Trung và tác động ảnh hưởng đến hiệu suất ; dịch cúm gia cầm tái phát ở 1 số ít địa phương. Trên thị trường quốc tế, giá nhiều loại vật tư, nguyên vật liệu quan trọng như xăng dầu, sắt thép, phân bón, chất dẻo … tăng cao và diễn biến phức tạp đã gây áp lực đè nén tăng giá nguồn vào cho sản xuất trong nước và tăng giá tiêu dùng. Do có sự chỉ huy điều hành quản lý sát sao của nhà nước ngay từ những tháng đầu năm và sự nỗ lực của những ngành, những cấp, những địa phương và toàn dân nhằm mục đích đạt được tiềm năng tăng trưởng kinh tế tài chính – xã hội cả năm 2005, năm cuối của kế hoạch 5 năm 2001 – 2005, kinh tế tài chính nước ta liên tục đạt mức tăng trưởng cao và tăng trưởng tích cực, xã hội không thay đổi. Trên cơ sở update tình hình quí IV, Tổng cục Thống kê tổng hợp sơ bộ tình hình kinh tế-xã hội năm 2005 như sau :

A. TÌNH HÌNH KINH TẾ

  1. Kết quả thực hiện một số chỉ tiêu kinh tế tổng hợp

Theo số liệu sơ bộ, tổng sản phẩm trong nước Quí IV tính theo gía so sánh năm 1994 tăng 9,2 % so với quí IV năm trước, trong đó khu vực nông lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 3 % ( nông nghiệp tăng 2 %, lâm nghiệp tăng 1,2 % và thuỷ sản tăng 12,5 % ) ; khu vực công nghiệp và thiết kế xây dựng tăng 12,3 % ( công nghiệp chế biến tăng mạnh ( + 14,7 % ) ; điện, ga và nước tăng 12,9 % và thiết kế xây dựng tăng 12,3 % ) ; khu vực dịch vụ tăng 9,3 % ( những ngành khách sạn, nhà hàng quán ăn ; vận tải đường bộ bưu điện ; kinh tế tài chính là những ngành có giá trị tăng thêm lớn đạt vận tốc tăng từ 10 % trở lên, đã góp thêm phần tích cực cho tăng trưởng khu vực dịch vụ quí IV ) .

Tăng trưởng quí III thay đổi không nhiều so với ước tính từ  tháng 9, song tốc độ tăng của các ngành và khu vực ngành kinh tế có thay đổi, đặc biệt là khu vực công nghiệp khai thác, do khai thác dầu khí vẫn tiếp tục giảm so với cùng kỳ năm trước và các biến động tích cực hơn của một số sản phẩm chế biến xuất khẩu.

Tính chung năm 2005, tổng sản phẩm trong nước tăng 8,4 % so với năm 2004, trong đó khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 4 % ; khu vực công nghiệp và thiết kế xây dựng tăng 10,6 % và khu vực dịch vụ tăng 8,5 %. Trong 8,4 % tăng trưởng chung, góp phần của những khu vực theo thứ tự góp phần : công nghiệp và kiến thiết xây dựng 4,2 điểm Xác Suất ; dịch vụ 3,4 điểm Phần Trăm và nông lâm nghiệp thuỷ sản 0,8 điểm Tỷ Lệ .

Bảng 1. Tổng sản phẩm trong nước năm 2005

theo giá so sánh 1994

Tổng sản phẩm trong nước
( Tỷ đồng )
Tốc độ tăng      so với năm 2004 (%) Đóng góp của mỗi khu vực vào tốc độ tăng chung (%)
       
Tổng số 392989 8,4 8,4
 Nông, lâm nghiệp và thuỷ sản 76905 4,0 0,8
Công nghiệp và xây dựng 157808 10,6 4,2
Riêng công nghiệp 123398 10,6 3,3
Dịch vụ 158276 8,5 3,4

Khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản năm nay đạt mức tăng thấp hơn so với dự kiến từ tháng 9, hầu hết do sản lượng lúa mùa ở những tỉnh miền Bắc giảm ( tác động ảnh hưởng trực tiếp của bão số 7, bão số 8 ) và thiệt hại do cúm gia cầm không những giảm vận tốc Phục hồi tổng đàn mà còn giảm cầu tiêu dùng thịt gia cầm và những mẫu sản phẩm chế biến từ gia cầm do tâm ý người dân quan ngại không muốn tiêu dùng gia cầm khi không rõ nguồn gốc. Tuy nhiên, trong khu vực này thuỷ sản tăng mạnh, do cầu trong nước tăng ( bù vào thịt gia cầm và mẫu sản phẩm chế biến từ gia cầm ) và xuất khẩu tăng so với năm trước, nhất là những tháng cuối năm. Lâm nghiệp tăng nhẹ, đa phần do tăng sản lượng gỗ khai thác .
Khu vực công nghiệp và kiến thiết xây dựng đạt mức tăng trưởng 10,6 %, trong đó giá trị tăng thêm của khu vực công nghiệp chế biến tăng 13,1 % ( 9 tháng tăng 12,5 %, cao hơn mức tăng 11 % đã ước tính vào cuối tháng 9 và công nghiệp chế biến quí IV tăng 14,7 % ) ; giá trị tăng thêm của công nghiệp khai thác năm nay chỉ tăng 0,9 %, đa phần do dầu thô khai thác trong suốt cả 4 quí đều thấp hơn sản lượng cùng quí tương ứng của năm 2004 và sản lượng dầu thô khai thác cả năm cũng chỉ đạt mức 92,3 % sản lượng năm 2004. Công nghiệp điện, ga, nước tăng 12,2 % ; thiết kế xây dựng tăng 10,8 % .
Khu vực dịch vụ có mức tăng trưởng 8,5 %, cao hơn hẳn mức tăng trưởng 7,3 % của năm 2004. Trong khu vực này, những ngành có tỷ trọng lớn và thuộc nghành dịch vụ kinh doanh thương mại như thương nghiệp ; khách sạn, nhà hàng quán ăn ; vận tải đường bộ, bưu điện, du lịch ; kinh tế tài chính, ngân hàng nhà nước, bảo hiểm đều có mức tăng cao hơn so với mức tăng của từng ngành trong năm trước : Thương nghiệp năm nay tăng 8,3 % ( năm 2004 tăng 7,8 % ) ; Khách sạn nhà hàng quán ăn tăng 17 % ( 2004 tăng 8,1 % ) ; Vận tải, bưu điện, du lịch tăng 9,6 % ( 2004 tăng 8,1 % ) …
Do khu vực công nghiệp và thiết kế xây dựng liên tục tăng trưởng cao hơn mức tăng chung và tăng nhanh hơn những khu vực khác nên cơ cấu tổ chức kinh tế tài chính ngành liên tục chuyển dời theo khunh hướng tăng ở khu vực công nghiệp, thiết kế xây dựng và giảm ở khu vực nông, lâm nghiệp, thuỷ sản .

 

Bảng 2. Tỷ trọng các khu vực kinh tế

trong tổng sản phẩm trong nước

%

2001 2002 2003 2004 2005
           
Tổng số 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00
 Nông, lâm nghiệp và thuỷ sản 23,24 23,03 22,54 21,81 20,89
Công nghiệp và xây dựng 38,13 38,49 39,47 40,21 41,03
Riêng công nghiệp 32,33 32,6 33,42 33,98 34,68
Dịch vụ 36,63 38,48 37,99 37,98 38,08

 

Tổng thu ngân sách Nhà nước năm 2005 ước tính tăng 16,6% so với năm 2004 và đạt 115% dự toán cả năm. Trong tổng số, các khoản thu nội địa đạt 109,2% dự toán; thu từ dầu thô đạt 146,1% (chủ yếu do giá dầu tăng cao so với khi lập dự toán); thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất, nhập khẩu bằng dự toán năm. Các khoản thu chủ yếu trong thu nội địa nhìn chung vượt dự toán cả năm, trong đó thu từ doanh nghiệp đầu tư nước ngoài (không kể thu từ dầu thô) đạt 114,2%; thu thuế công, thương nghiệp và dịch vụ ngoài quốc doanh 106,4%; thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao 107,3%; các khoản thu về nhà đất chỉ đạt 133,6%; riêng các khoản thu từ kinh tế quốc doanh chỉ đạt 101,9%.

Tổng chi ngân sách Nhà nước năm 2005 ước tính đạt 112,5% dự toán cả năm và tăng 19,5% so với năm 2004, đã đảm bảo nhu cầu chi từ ngân sách Nhà nước. Trong tổng số, chi cho đầu tư phát triển đạt 106,1% dự toán (chi đầu tư xây dựng cơ bản đạt 105,5%); chi thường xuyên đạt 107,8%; chi trả nợ và viện trợ đạt mức dự toán năm. Những khoản chi lớn và quan trọng trong chi thường xuyên nhìn chung đều đạt dự toán cả năm, trong đó chi cho giáo dục và đào tạo đạt 104,3; chi cho y tế 107,5%; chi lương hưu và bảo đảm xã hội 102,9%; chi quản lý hành chính, Đảng, Đoàn thể 111,9%; chi sự nghiệp kinh tế 130,2%… Bội chi ngân sách bằng mức dự toán cả năm và bằng 4,9% GDP, trong đó được bù đắp bằng nguồn vay trong nước là 81,6% và vay nước ngoài 18,4%.

  1. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản

Sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản năm 2005 diễn ra trong điều kiện kèm theo không thuận tiện : Hạn hán nóng bức và lê dài trong suốt mùa khô ở Tây Nguyên và Duyên hải Nam Trung Bộ ; mưa và bão diễn biến phức tạp ; giá nhiều loại nguyên, nhiên, vật tư tăng ; dịch cúm gia cầm tái phát ở nhiều địa phương. Tuy nhiên, nhờ sự chỉ huy kịp thời có hiệu suất cao của những cấp, những ngành ; giá nhiều loại nông sản trong nước tăng so với năm 2004 nên sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy hải sản năm nay không bị tác động ảnh hưởng nhiều. Giá trị sản xuất khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản năm 2005 tính theo giá so sánh năm 1994 ước tính đạt 182,0 nghìn tỷ đồng, tăng 4,9 % so với năm 2004 ; trong đó nông nghiệp đạt 137,1 nghìn tỷ đồng, tăng 3,2 % ; lâm nghiệp 6,3 nghìn tỷ đồng, tăng 1,2 % ; thuỷ sản 38,6 nghìn tỷ đồng, tăng 12,1 %. Tình hình sản xuất của từng ngành như sau :

  1. Nông nghiệp

Trồng trọt : Sản lượng lúa cả nước năm nay đạt 35,79 triệu tấn, giảm 35,8 vạn tấn so với năm 2004, trong đó những địa phương phía Bắc đạt 12,45 triệu tấn, giảm 67,9 vạn tấn, những địa phương phía Nam đạt 23,34 triệu tấn, tăng 32,1 vạn tấn. Diện tích lúa đạt 7326,4 nghìn ha, giảm 119 nghìn ha ; hiệu suất đạt 48,9 tạ / ha, xê dịch năm 2004. Riêng đồng bằng sông Cửu Long liên tục chứng minh và khẳng định là vựa lúa của cả nước, nơi phân phối mẫu sản phẩm hàng hoá cho xuất khẩu với diện tích đạt 3,8 triệu ha, sản lượng đạt 19,23 triệu tấn, tăng 66,7 vạn tấn so với năm 2004. Nếu tính thêm 3,76 triệu tấn ngô và những loại cây lương thực có hạt khác thì sản lượng lương thực có hạt cả nước năm nay đạt 39,55 triệu tấn, xê dịch sản lượng năm 2004 .
Sản xuất cây công nghiệp hàng năm tăng khá so với năm trước, trong đó sản lượng đậu tương đạt 291,5 nghìn tấn, tăng 18,5 % ; lạc 485,5 nghìn tấn, tăng 3,5 % ; thuốc lá 25,9 nghìn tấn, tăng 10,7 % ; riêng cây mía do giá mía nguyên vật liệu không không thay đổi và 1 số ít diện tích mới trồng chưa thu hoạch, nên sản lượng chỉ đạt 14,7 triệu tấn, giảm 5,9 % .
Kết quả sản xuất cây công nghiệp lâu năm có nhiều tân tiến so với năm trước do diện tích thu hoạch được lan rộng ra, trong đó sản lượng chè đạt 534,2 nghìn tấn, tăng 4 % ; cao su đặc 468,6 nghìn tấn, tăng 11,8 % ; hồ tiêu 77 nghìn tấn, tăng 4,9 % ; điều 232 nghìn tấn, tăng 13,3 % ; riêng cafe sản lượng 767,7 nghìn tấn, giảm 8,2 % do nắng hạn .
Tổng diện tích cây ăn quả đạt 766,1 ngàn ha, tăng 2,6 % so với năm 2004, hầu hết do tái tạo vườn tạp và tăng diện tích cây xanh đặc sản nổi tiếng, có giá trị hàng hoá cao. Sản lượng cam, quýt tăng 12 % ; dứa tăng 13,9 % ; xoài tăng 12,8 % ; nhãn tăng 3,7 % ; bưởi tăng 15,7 % ; vải giảm 25,2 % .
Chăn nuôi : Nhờ nguồn thức ăn dồi dào, nhu yếu thực phẩm thay thế sửa chữa cho những loại sản phẩm gia cầm tăng và giá cả loại sản phẩm không thay đổi ở mức cao nên chăn nuôi gia súc trên địa phận cả nước tăng trưởng nhanh, đặc biệt quan trọng tỷ suất bò sinh sản, bò thịt, bò lai sind đang có khuynh hướng tăng cao ; bò sữa đang phục sinh và được chăn nuôi hầu hết theo phương pháp nuôi công nghiệp nên sản lượng sữa đạt khá ; đàn lợn tăng trưởng theo quy mô trang trại, vườn trại với quy mô đầu con, số vòng xoay và sản lượng xuất chuồng tăng đáng kể .
Cả nước có 2,9 triệu con trâu, tăng 1,8 % so với năm 2004, đa phần tăng đàn trâu thịt ; đàn bò 5,5 triệu con, tăng 12,9 %, trong đó đàn bò lai tăng 30 % ; đàn lợn 27,4 triệu con, tăng 4,9 %. Chăn nuôi gia cầm bị tác động ảnh hưởng lớn bởi dịch cúm tái phát, tính từ 1/10/2005 đến nay tổng số gia cầm bị tiêu huỷ là 3,58 triệu con, trong đó gà 1,21 triệu con ; ngan, vịt 1,89 triệu con .

  1. Lâm nghiệp.

Diện tích rừng trồng tập trung chuyên sâu cả nước năm nay đạt 184,5 nghìn ha, tăng 0,1 % so với năm 2004 ; số cây phân tán ( chỉ tính cây lâm nghiệp ) đạt 245,8 triệu cây, tăng 1,9 % ; sản lượng gỗ khai thác ( kể cả gỗ nguyên vật liệu giấy ) đạt 2703,0 nghìn m3, tăng 2,9 % .
Công tác bảo vệ, phòng chống cháy rừng tuy được Nhà nước chăm sóc và góp vốn đầu tư nhiều hơn trước, nhưng do thời tiết trong năm diễn biến phức tạp, nắng nóng lê dài gây hạn hán ở nhiều nơi nên diện tích rừng bị thiệt hại vẫn ở mức cao với 10296,6 ha, tăng 46,2 % so với năm trước, trong đó diện tích rừng bị cháy 7552,5 ha, tăng 57,8 %. Một số tỉnh có diện tích rừng bị thiệt hại nhiều là Kon Tum cháy 1483,3 ha, Điện Biên cháy 876,9 ha .

  1. Thuỷ sản.

Sản lượng thuỷ sản cả nước năm nay ước tính đạt 3432,8 nghìn tấn, tăng 9,2 % so với năm 2004, trong đó cá 2400,9 nghìn tấn, tăng 7,7 % ; tôm 441 nghìn tấn, tăng 13,4 % .
Nuôi trồng thuỷ sản năm 2005 tuy gặp khó khăn vất vả về thời tiết nhưng nhờ đa dạng hoá hình thức nuôi trồng theo hướng hiệu suất cao cao và bền vững và kiên cố nên sản lượng đạt 1437,4 nghìn tấn, tăng 19,5 % so với năm 2004, trong đó cá tăng 22,6 % ; tôm tăng 17,2 %. Diện tích nuôi trồng thuỷ sản đạt 959,9 nghìn ha, tăng 4,3 %, trong đó diện tích nuôi cá 290 nghìn ha, tăng 4,1 % ; diện tích nuôi tôm 622,4 nghìn ha, tăng 3 % .
Hoạt động khai thác thuỷ sản tuy được thời tiết ủng hộ nhưng lại đương đầu với giá xăng dầu lên cao. Để khắc phục khó khăn vất vả, những địa phương đã hướng dẫn ngư dân hợp tác sản xuất, bám biển dài ngày, tìm ngư trường thời vụ mới, tổ chức triển khai những đội tàu dịch vụ thu mua loại sản phẩm và đáp ứng nguyên vật liệu cho tàu đánh bắt cá xa bờ, góp thêm phần giảm chi phí sản xuất, tăng hiệu suất tàu, thuyền. Nhờ đó, sản lượng món ăn hải sản đánh bắt cá vẫn tăng, tỷ trọng món ăn hải sản đánh bắt cá xa bờ ngày càng lớn, trong đó có những mẫu sản phẩm ship hàng xuất khẩu như cá ngừ đại dương, tôm hùm, mực ống. Sản lượng khai thác năm nay ước tính đạt 1995,4 nghìn tấn, tăng 2,9 % so với năm 2004, trong đó khai thác biển 1809,7 nghìn tấn, tăng 4,4 % .

  1. Sản xuất công nghiệp

Sản xuất công nghiệp năm 2005 liên tục duy trì được vận tốc tăng trưởng cao so với kế hoạch đề ra và tăng cao hơn so với vận tốc tăng của những năm gần đây. Giá trị sản xuất công nghiệp năm 2005 theo giá cố định và thắt chặt 1994 ước tính tăng 17,2 % so với năm 2004, trong đó khu vực Nhà nước, chiếm tỷ trọng 34,3 % giá trị sản xuất công nghiệp, tăng 8,7 % ( doanh nghiệp Nhà nước do TW quản trị tăng 13,1 % và doanh nghiệp Nhà nước do địa phương quản trị giảm 2 % ) ; khu vực ngoài quốc doanh, chiếm tỷ trọng 28,5 %, tăng 24,1 %, khu vực có vốn góp vốn đầu tư quốc tế chiếm tỷ trọng 37,2 %, tăng 20,9 % ( dầu mỏ, khí đốt đạt 27,1 nghìn tỷ, giảm 4,6 %, những ngành khác đạt 127,9 nghìn tỷ, tăng 28,1 % ). Trong những khu vực kinh tế tài chính, khu vực doanh nghiệp Nhà nước có vận tốc tăng thấp, do số doanh nghiệp giảm, giảm nhiều nhất là doanh nghiệp Nhà nước địa phương quản trị, do liên tục triển khai chủ trương của Nhà nước về thay đổi, sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước ( có qui mô sản xuất nhỏ, hiệu suất cao sản xuất thấp hoặc làm ăn thua lỗ ) chuyển sang những hình thức chiếm hữu khác như cổ phần hoá .
Trong ba ngành công nghiệp cấp I, công nghiệp khai thác chiếm tỷ trọng 9,1 % giá trị sản xuất công nghiệp, chỉ tăng 1,4 %, hầu hết do khai thác dầu thô giảm, ( sản lượng khai thác dầu thô năm 2005 ước tính chỉ đạt 92,3 % sản lượng năm 2004 ) ; công nghiệp chế biến chiếm tỷ trọng 84,9 %, tăng 19,5 % so với năm trước, góp phần chính vào tăng giá trị sản xuất công nghiệp 2005 ; sản xuất, phân phối điện, ga và nước chiếm tỷ trọng xê dịch 6 %, tăng 14,1 % so với cùng kỳ, cao hơn mức tăng của 1 số ít năm gần đây, hầu hết do 1 số ít xí nghiệp sản xuất điện được Nhà nước góp vốn đầu tư kiến thiết xây dựng thêm đã đi vào hoạt động giải trí trong năm 2005 .
Một số loại sản phẩm công nghiệp đa phần tăng mạnh so với năm 2004 như : Than sạch khai thác năm 2005 ước tính đạt 32,6 triệu tấn, tăng 21,7 % so với năm trước ; thuỷ sản chế biến 594,6 nghìn tấn, tăng 15,9 % ; sữa hộp tăng 15,2 % ; phân hoá học 2,2 triệu tấn, tăng 24,7 % ; gạch lát 134,1 triệu mét vuông, tăng 21,9 % ; thép cán 3,7 triệu tấn, tăng 21,8 % ; dây cáp điện 72,3 triệu m, tăng 39,8 % ; máy công cụ tăng 32,8 % ; xe hơi lắp ráp tăng 31,1 % và điện tăng 15,4 %. Một số loại sản phẩm hầu hết tăng ở mức 10-15 % so với năm trước, do khó khăn vất vả trong sản xuất và tiêu thụ mẫu sản phẩm : quần áo may sẵn tăng 14,8 % ; giấy bìa tăng 12,7 % ; xi-măng tăng 11,9 %, xe máy lắp ráp tăng 11,7 % ; bia tăng 10,3 % … Bên cạnh đó có 1 số ít loại sản phẩm giảm so với năm 2004 như : dầu thô khai thác giảm 7,7 % ; ga hoá lỏng giảm 7,3 % ; đường mật giảm 18,5 % ; ti vi lắp ráp giảm 7,5 % ; xe đạp điện hoàn hảo giảm 20,5 % …
Nhìn chung, công nghiệp năm 2005 tăng trước hết do tăng cầu mẫu sản phẩm công nghiệp được sản xuất trong nước trên thị trường trong nước và tăng xuất khẩu loại sản phẩm công nghiệp, trong đó xuất khẩu 1 số ít loại sản phẩm tăng mạnh như than đá, những loại sản phẩm điện tử, điện lạnh ; dây điện và cáp điện ; mẫu sản phẩm nhựa ; loại sản phẩm gỗ … Nhà nước tăng góp vốn đầu tư cho những khu công trình công cộng, kiến trúc … làm tăng nhu yếu tiêu thụ những loại sản phẩm tương quan, đặc biệt quan trọng là những loại sản phẩm Giao hàng kiến thiết xây dựng như sắt, thép, xi-măng … Qui mô sản xuất công nghiệp được lan rộng ra so với năm 2004 : Theo ước tính sơ bộ, số doanh nghiệp công nghiệp trong thực tiễn đang hoạt động giải trí đầu năm 2005 khoảng chừng trên 23 nghìn doanh nghiệp, tăng 27,5 % so với đầu năm 2004 ; tương ứng với số lao động tăng 12,6 % ; vốn tăng 25,6 % ; lệch giá tăng trên 30 % so với năm 2004. Trong tổng số, doanh nghiệp công nghiệp có vốn góp vốn đầu tư quốc tế đang hoạt động giải trí là 2352, tăng 17,2 % so với đầu năm 2004 ; lao động tăng 21,7 % ; vốn tăng 42 %. Đầu tư trực tiếp quốc tế vào nghành công nghiệp trong những năm qua tăng nhanh, tạo tiền đề cho khu vực này tăng trưởng cao và không thay đổi và chính khu vực này đã phân phối nhiều loại sản phẩm mới có giá trị cao, tiêu thụ tốt ở thị trường trong nước và phân phối cho xuất khẩu .

  1. Đầu tư­

Thực hiện vốn góp vốn đầu tư ­ tăng trưởng năm 2005 theo giá trong thực tiễn sơ bộ đạt 324 nghìn tỷ đồng, tăng 8 % so với kế hoạch năm. Trong tổng số, vốn Nhà nư ­ ớc chiếm 53,1 %, vốn ngoài Nhà nước chiếm 32,4 %, vốn đầu t ­ ư trực tiếp nư ­ ớc ngoài chiếm 14,5 % .

Bảng 3. Thực hiện vốn đầu t­ư phát triển năm 2005

 

 Kế hoạch 2005    (Nghìn tỷ đồng) Ước thực hiện năm 2005
(Nghìn tỷ đồng) % so với kế hoạch năm Tổng số = 100 (%)
Tổng số 300,0 324,0 108,0 100,0
Vốn Nhà n­ước 171,0 172,0 100,6 53,1
Vốn ngoài Nhà nước 86,0 105,0 122,1 32,4
Vốn đầu tư­ trực tiếp n­ước ngoài 43,0 47,0 109,3 14,5

Vốn đầu tư xây dựng cơ bản thuộc vốn ngân sách Nhà nước năm 2005 ước thực hiện 62,93 nghìn tỷ đồng, bằng 121,2% kế hoạch cả năm, trong đó các đơn vị Trung ương 24,57 nghìn tỷ đồng bằng 123,5% kế hoạch năm; các đơn vị địa phương 38,36 nghìn tỷ đồng bằng 119,8%. Trong khối các đơn vị trung ương quản lý, Bộ giao thông vận tải thực hiện 7949 tỷ đồng,  bằng 138% kế hoạch năm; Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn 2309 tỷ đồng, đạt 126,3%; các Bộ khác đạt tỷ lệ kế hoạch vốn phổ biến ở mức từ 95%;  riêng Bộ Thuỷ sản mới đạt 86%.

Về góp vốn đầu tư trực tiếp của quốc tế, từ đầu năm đến ngày 15/12/2005, trên khoanh vùng phạm vi cả nước đã có 771 dự án Bất Động Sản mới được cấp phép góp vốn đầu tư với tổng vốn góp vốn đầu tư ĐK 3,9 tỷ USD, trung bình vốn 1 dự án Bất Động Sản mới được cấp phép là 5,1 triệu USD. Theo ngành kinh tế tài chính, những dự án Bất Động Sản mới được cấp phép trong năm nay vẫn hầu hết tập trung chuyên sâu vào công nghiệp và thiết kế xây dựng, đặc biệt quan trọng là nghành nghề dịch vụ công nghiệp có nhiều dự án Bất Động Sản và qui mô lớn hơn nhiều so với những dự án Bất Động Sản góp vốn đầu tư vào nông, lâm nghiệp và thuỷ sản .

Bảng 4: Đầu t­ư trực tiếp nước ngoài năm 2005

Số dự án mới đuọc cấp phép Số vốn đăng ký (Triệu USD) % của tổng số Vốn bình quân một dự án (Triệu USD)
Dự án Vốn đăng ký
Tổng số 771 3896,2 100,0 100,0 5,05
Công nghiệp và xây dựng 519 2340,0 67,3 60,1 4,51
Công nghiệp dầu khí 1 20,0 0,1 0,5 20,00
Công nghiệp nặng 245 638,7 31,8 16,4 2,61
Công nghiệp nhẹ 221 1557,4 28,7 40,0 7,05
Công nghiệp thực phẩm 28 80,4 3,6 2,1 2,87
Xây dựng 24 43,7 3,1 1,1 1,82
Nông lâm nghiệp, thuỷ sản 75 122,6 9,7 3,1 1,63
Dịch vụ 177 1433,4 23,0 36,8 8,10

Cũng tính từ đầu năm đến ngày 15/12/2005 đã có 42 vương quốc và vùng chủ quyền lãnh thổ được cấp phép dự án Bất Động Sản góp vốn đầu tư mới tại Nước Ta. Có 40 tỉnh, thành phố có dự án Bất Động Sản góp vốn đầu tư quốc tế mới được cấp phép. Có 509 lượt dự án Bất Động Sản được tăng vốn trong năm nay, với tổng số vốn tăng thêm là 1825,8 triệu USD, trong đó những ngành công nghiệp 404 dự án Bất Động Sản với 1407,4 triệu USD ; kiến thiết xây dựng 10 dự án Bất Động Sản với 92,1 triệu USD ; nông, lâm nghiệp và thuỷ sản 56 dự án Bất Động Sản với 204 triệu USD và dịch vụ 49 dự án Bất Động Sản với 214,4 triệu USD. Tính chung trong năm nay, cả vốn cấp mới và vốn tăng thêm đạt 5,72 tỷ USD, là mức lôi cuốn góp vốn đầu tư trực tiếp của quốc tế khá cao so với những năm gần đây .

  1. Thương mại, giá cả và du lịch

thị trường trong nước năm nay diễn biến phức tạp, do ảnh hưởng tác động của dịch chuyển giá trên thị trường quốc tế, nhất là giá xăng dầu và 1 số ít vật tư nguyên vật liệu tăng mạnh đã làm tăng giá trong nước. Tuy nhiên, do sản xuất liên tục tăng trưởng, giá nông sản tăng có lợi cho nông dân và kiểm soát và điều chỉnh tăng lương khu vực hưởng lương từ ngân sách Nhà nước, nên thu nhập của dân cư tăng, kéo theo cầu tăng. Tổng mức kinh doanh nhỏ hàng hoá và lệch giá dịch vụ quí IV liên tục tăng so với cùng quí năm trước, sơ bộ cả năm tổng mức kinh doanh nhỏ hàng hoá và lệch giá dịch vụ đạt 475,38 nghìn tỷ đồng, tăng 20,5 % so với năm trước và tăng khoảng chừng 12 %, nếu loại trừ yếu tố tăng giá. Khu vực kinh tế tài chính Nhà nước đạt 62,13 nghìn tỷ đồng, chiếm 13,1 % tổng mức và chỉ tăng 3,9 % so với năm trước, như vậy nếu loại trừ giá thì khu vực này giảm ; khu vực kinh tế tài chính tập thể đạt 5 nghìn tỷ đồng, chiếm 1 %, tăng 16,8 % ; khu vực kinh tế tài chính thành viên đạt 288,92 nghìn tỷ đồng, chiếm 60,8 %, tăng 25,3 % ; khu vực kinh tế tài chính tư nhân 101,1 nghìn tỷ đồng, chiếm 21,3 % và tăng 19,4 % ; khu vực có vốn góp vốn đầu tư quốc tế đạt 18,23 nghìn tỷ đồng, chiếm 3,8 % và tăng 20,7 %. Theo ngành kinh doanh thương mại, tổng mức kinh doanh bán lẻ hàng hoá và dịch vụ xã hội ngành thương nghiệp chiếm 77,9 % tổng mức và tăng 19 % so với cùng kỳ năm trước ; khách sạn, nhà hàng quán ăn tăng 28,6 %, ngành dịch vụ tăng 23,8 %. Cụ thể như sau :

 

Bảng 5. Tổng mức bán lẻ hàng hoá

và dịch vụ xã hội năm 2005

Tổng mức (Nghìn tỷ đồng giá thực tế) Cơ cấu
( Tổng số = 100 ) %
Tốc độ tăng danh nghĩa so với 9 tháng 2004 (%)
TỔNG SỐ 475,38 100,0 20,5
Thương nghiệp 370,22 77,9 19,0
Khách sạn, nhà hàng 58,01 12,2 28,6
Dịch vụ 43,56 9,2 23,8
Du lịch 3,59 0,7 19,9

Giá tiêu dùng tháng 12/2005 liên tục tăng 0,8 % so với tháng trước, bằng mức tăng giá của tháng 9 và là mức tăng tương đối cao so với mức tăng 0,4 % của 10 và tháng 11. Như vậy, giá tiêu dùng so với tháng trước của toàn bộ những tháng trong năm 2005 đều tăng lên tuy mức độ có chênh lệch giữa những tháng, tăng thấp nhất là 0,4 % và tăng cao nhất là 2,5 % ( tháng 2/2005, là tháng Tết ). Giá tháng 12 so với tháng trước của 9/10 phân nhóm tăng, trong đó giá phân nhóm lương thực, thực phẩm và dịch vụ nhà hàng ngoài mái ấm gia đình tăng 1,4 % ( lương thực tăng 1,2 % và thực phẩm tăng 1,7 % ), đã góp phần 0,67 điểm Tỷ Lệ vào tăng giá chung ; ba nhóm tiếp theo là nhà ở vật tư kiến thiết xây dựng ; thiết bị và vật dụng mái ấm gia đình ; hàng may mặc, giày dép, mũ nón đều tăng 0,6 % và mỗi nhóm góp phần 0,5 điểm Xác Suất. Các nhóm còn lại tăng từ 0,2 đến 0,7 % ; riêng giá phương tiện đi lại đi lại, bưu điện giảm 1,1 % ( trong nhóm này, giá bưu chính viễn thông không biến hóa so với tháng trước ) .
So với tháng 12/2004, giá tiêu dùng tháng 12 năm 2005 tăng 8,4 %. Đáng quan tâm là giá của tổng thể 10 nhóm hàng hoá và dịch vụ đều tăng : một số ít nhóm giá tăng cao, góp phần chính vào tăng giá tiêu dùng so với tháng 12/2004 như giá lương thực, thực phẩm tăng 10,8 % ; nhóm nhà tại, vật tư kiến thiết xây dựng tăng 9,8 % ; nhóm phương tiện đi lại đi lại, bưu điện tăng 9,1 % ( trong đó nhóm phương tiện đi lại đi lại tăng khá cao, bưu chính viễn thông giảm 9,2 % ). Gía trung bình 12 tháng tăng 8,3 % so với năm 2004, là mức tăng khá cao so với những năm gần đây : giá 2004 tăng trung bình 7,7 %, năm 2003 tăng 3,2 % ; giá 2002 tăng 3,9 % .
Giá vàng tháng 12 đạt mức tăng kỷ lục so với tháng trước ( + 7,5 % ), và vượt mức tăng giá của toàn bộ những tháng từ đầu năm đến nay ( giá vàng tháng 10 so với tháng trước đạt mức tăng cao nhất từ đầu năm cũng chỉ đạt mức tăng 4,1 % ). Giá vàng tăng mạnh hầu hết do giá vàng trên thị trường quốc tế tăng, mặt khác do tăng lãi suất vay đồng đô la Mỹ và tăng giá tiêu dùng, người dân đã chuyển sang dự trữ vàng nhiều hơn trước, làm tăng cầu. So với tháng 12 năm 2004 giá vàng tăng 11,3 %. Giá đô la Mỹ tương đối không thay đổi, giá những tháng so với tháng trước chỉ tăng ở mức từ 0 % đến 0,2 % ; so với tháng 12 năm trước tăng 0,9 %, trung bình 12 tháng tăng 0,6 % so với năm trước .

Bảng 6. Chỉ số giá tiêu dùng và giá vàng, giá đô la Mỹ

%

  Giá tiêu dùng Giá vàng so với tháng 12 năm 2004 Giá đô la mỹ so với tháng 12 năm 2004
  So với tháng trước So với tháng 12 năm 2004 So với cùng tháng 2004
Tháng 1 101,1 101,1 109,7 98,0 100,0
Tháng 2 102,5 103,6 109,1 96,2 100,1
Tháng 3 100,1 103,7 108,4 98,1 100,1
Tháng 4 100,6 104,3 108,5 97,3 100,2
Tháng 5 100,5 104,8 108,1 97,1 100,3
Tháng 6 100,4 105,2 107,6 95,6 100,3
Tháng 7 100,4 105,6 107,5 96,7 100,5
Tháng 8 100,4 106,0 107,3 97,0 100,6
Tháng 9 100,8 106,8 107,8 98,6 100,6
Tháng 10 100,4 107,2 108,3 102,6 100,7
Tháng 11 100,4 107,6 108,5 103,5 100,8
Tháng 12 100,8 108,4 108,4 111,3 100,9

Tổng mức lưu chuyển ngoại thương năm 2005 ước tính đạt 69,11 tỷ USD, tăng 18,2% so với cùng kỳ năm trước, trong đó xuất khẩu đạt 32,23 tỷ USD, tăng 21,6% và nhập khẩu đạt 36,88 tỷ USD, tăng 15,4%. Trong năm 2005 tốc độ xuất khẩu tăng đáng kể so với tốc độ tăng nhập nhẩu (xuất khẩu tăng nhanh hơn 6,2 điểm phần trăm), do vậy nhập siêu cả năm nay giảm cả về số tuyệt đối và tỷ lệ so với trị giá xuất khẩu: nhập siêu cả năm chỉ còn 4,65 tỷ USD (năm 2004 là 5,45 tỷ), bằng 14,4% kim ngạch xuất khẩu, giảm 6,2 điểm phần trăm so với tỷ lệ 20,6% trong năm 2004.

Xuất khẩu: Trị giá xuất khẩu tháng 12 ước tính đạt xấp xỉ 3 tỷ USD (gần đạt mức 3,06 tỷ USD, là mức xuất khẩu cao nhất đã đạt được trong tháng 8/2005), nâng tổng trị giá xuất khẩu cả năm 2005 lên 32,23 tỷ USD, tăng 5,73 tỷ USD so với năm 2004, bình quân một tháng năm nay xuất khẩu 2,69 tỷ USD (bình quân năm 2004 đạt 2,2 tỷ USD). Trong tổng kim ngạch, xuất khẩu dầu thô đạt 7,39 tỷ USD, tăng 30,3% so với năm trước; xuất khẩu không kể dầu thô đạt 24,85 tỷ USD, tăng 19,3%, trong đó kinh tế trong nước 13,72 tỷ USD, tăng 14,1%; xuất khẩu của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) 11,13 tỷ USD, tăng 26,2%.

Trong năm nay, sau dầu thô kim ngạch dệt may ước đạt 4,81 tỷ USD, giày dép 3 tỷ USD, thuỷ sản khoảng chừng 2,74 tỷ USD, có thêm 3 loại sản phẩm đạt kim ngạch cỡ 1,4 tỷ USD đến 1,5 tỷ là gỗ và loại sản phẩm gỗ 1,52 tỷ USD, điện tử máy tính 1,44 tỷ USD và gạo 1,4 tỷ USD. Xuất khẩu dầu thô năm nay tăng thêm 1,72 tỷ USD so với năm trước do giá xuất khẩu dầu thô trung bình cả năm đã tăng trên 40 % so với giá xuất khẩu trung bình của năm trước, làm tăng thêm 2,13 tỷ USD, bù lại lượng xuất khẩu cả năm chỉ bằng 92,7 % năm trước và chưa đạt được kế hoạch năm về lượng dầu thô xuất khẩu. Xuất khẩu gạo tăng mạnh cả giá và lượng và lan rộng ra thị trường xuất khẩu sang những nước châu Á. Xuất khẩu gạo năm nay ước tính đạt 1,4 tỷ USD, tương tự với lượng xuất khẩu 5,2 triệu tấn, tăng 47,3 % về kim ngạch so với năm 2004 và tăng 27,3 % về lượng ; giá xuất khẩu gạo trung bình năm nay tăng 15,7 %. Xuất khẩu than đá liên tục tăng mạnh trong quí IV, cả năm ước đạt 658 triệu USD tương tự với lượng xuất khẩu 17,9 triệu tấn, tăng 85,2 % về kim ngạch trong khi lượng xuất khẩu tăng 53,8 %. Kim ngạch giày dép 3 tỷ USD, tăng 11,7 % ; gỗ và loại sản phẩm gỗ 1,52 tỷ USD, tăng 33,2 % ; hàng điện tử, máy tính 1,44 tỷ USD, tăng 34,1 % .
Các mẫu sản phẩm nòng cốt khác như dệt may, thuỷ sản trong quí IV đã đạt vận tốc tăng cao hơn so với mức tăng 9 tháng, do vậy vận tốc tăng cả năm đã khá hơn : Xuất khẩu hàng dệt, may 4,81 tỷ USD, tăng 9,6 % ( 9 tháng chỉ dự kiến tăng 4,4 % ) ; xuất khẩu thuỷ sản 2,74 tỷ USD, tăng 14,2 % ( 9 tháng tăng 13,1 % ). Tuy nhiên trong năm nay, lượng xuất khẩu một số ít mẫu sản phẩm nông sản như cafe, điều và chè giảm, nhưng được lợi về giá nên kim ngạch xuất khẩu cả ba loại sản phẩm này đều tăng hơn năm trước : xuất khẩu cafe lượng giảm 9,2 %, giá xuất khẩu trung bình tăng 26,6 %, kim ngạch tăng 13,1 % ; điều giảm 1,8 % về lượng, giá tăng 13,6 %, kim ngạch tăng 11,5 % ; chè lượng giảm 10,2 %, giá tăng 15,9 %, kim ngạch tăng 4,6 %. do vậy kim ngạch xuất khẩu ba nông sản này đều tăng hơn so với năm trước. Một số mẫu sản phẩm công nghiệp xuất khẩu giảm mạnh so với năm trước như xe đạp điện và phụ tùng ( – 39,2 % ) ; dầu, mỡ động thực vật giảm 18,5 %, đồ chơi trẻ nhỏ giảm 6,6 % …
Thị Trường hàng xuất khẩu của Nước Ta cả năm nhìn chung không thay đổi và tăng so với cùng kỳ, nhất là những thị trường lớn và Open nhiều thị trường mới ở khu vực Châu Phi. Thị trường Hoa kỳ cả năm ước tính khoảng chừng 6 tỷ, tăng 16,2 %, tăng mạnh ở mẫu sản phẩm gỗ và đồ gỗ xuất khẩu, giày dép. Thị trường Nhật Bản 4,45 tỷ, tăng 26,9 %, trong đó thuỷ sản tăng 8 %, dệt may tăng 16 %. Thị trường Ôxtrâylia 2,58 tỷ USD, tăng 41,9 % ; thị trường Trung Quốc tăng 8,8 % ; Xin-ga-po tăng 28,5 % ; riêng một số ít thị trường lớn thuộc EU giảm như : thị trường Đức và Anh, kim ngạch mỗi thị trường năm 2005 khoảng chừng 1 tỷ USD, nhưng mỗi thị trường đều giảm 1,7 % so với năm trước .

Nhập khẩu: Trị giá nhập khẩu năm 2005 đạt 36,88 tỷ USD, tăng 15,4% so với năm 2004, trong đó, khu vực kinh tế trong nước 23,19 tỷ USD, tăng 11,1%, là tốc độ tăng tương đối thấp so với tốc độ tăng nhập khẩu 23,5% của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, do vậy tỷ lệ nhập khẩu của khu vực kinh tế trong nước so với tổng kim ngạch nhập khẩu chỉ còn  62,9% (năm trước là 65,3%) và của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là 37,1% (tăng từ 34,7% trong năm trước). Bình quân mỗi tháng năm nay nhập khẩu 3,07 tỷ USD.

Nhập khẩu hầu hết những nguyên, nhiên vật tư hầu hết ship hàng cho sản xuất trong nước đều tăng cả về kim ngạch và lượng nhập so với năm trước. Trong 1 số ít loại sản phẩm có thống kê về lượng, nhiều mẫu sản phẩm có vận tốc tăng giá cao hơn vận tốc tăng về lượng. Nhập khẩu xăng dầu cả năm đạt 4,97 tỷ USD, tăng 39 % so với năm trước ( lượng nhập khẩu tăng 2,6 %, giá nhập khẩu tăng 35 % ) ; sắt thép 2,98 tỷ USD, tăng 16 % ( lượng tăng 8,7 %, giá tăng 6,7 % ) ; chất dẻo 1,43 tỷ USD, tăng 19,7 % ( lượng tăng 2,5 %, giá tăng 16,7 % ) : sợi dệt tăng 4,5 % ( lượng giảm 1,6 %, giá tăng 6,4 % ) .
Kim ngạch nhập khẩu phân bón giảm mạnh, do lượng nhập giảm, kéo theo kim ngạch giảm ; bông giảm 14,6 % ( hầu hết do giá giảm 20,6 %, trong khi lượng tăng 7,6 % ) ; dầu mỡ động thực vật giảm 18,5 % .
Nhập khẩu máy móc thiết bị, dụng cụ, phụ tùng cả năm tăng không đáng kể ( + 0,1 % ). Nhập khẩu xe hơi tăng 19,3 %, trong đó nguyên chiếc giảm 13,2 % ( riêng số lượng nhập giảm 24,3 % ) ; Xe máy nhập khẩu 533 triệu USD, tăng 17,9 % so với năm trước, trong đó xe máy nguyên chiếc nhập khẩu tăng 61,2 % ( số lượng nhập 44,8 nghìn chiếc, bằng 2,3 lần năm 2004 ) .
Nhập khẩu hàng hoá từ những nước châu Á chiếm tỷ trọng lớn và nhìn chung tăng tương đối cao : Trung Quốc tăng 27,8 % ; Xin-ga-po tăng 25 %, Đài Loan tăng 16,3 % ; Nhật Bản tăng 14,4 % ; Nước Hàn tăng 8,3 % và Xứ sở nụ cười Thái Lan tăng 29,6 % …

Bảng 7. Tổng mức lưu chuyển ngoại thương 2005

 

Tổng mức lưu chuyển ngoại thương Chia ra
Xuất khẩu Nhập khẩu
  Triệu USD
Tổng trị giá 69114 32233 36881
Khu vực kinh tế trong nước 36910 13716 23194
Khu vực có  đầu tư nước ngoài (cả dầu thô) 32204 18517 13687
  Tốc độ tăng so với 2004 (%)
Tổng trị giá 18.2 21.6 15.4
Khu vực kinh tế trong nước 12.2 14.1 11.2
Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài 25.9 27.8 23.5

 

  1. Vận tải

Vận chuyển hành khách năm 2005 ư ­ ớc tính đạt 1267,4 triệu l ­ ượt hành khách và 53,3 tỷ lượt hành khách. km, so với năm trư ­ ớc tăng 7,5 % về lượt khách và tăng 11,8 % về lượt khách. km. Trong những loại đường luân chuyển hành khách năm nay, luân chuyển bằng đường đi bộ và đường không tăng khá hơn : Vận chuyển hành khách bằng đường đi bộ chiếm tỷ trọng 85 % số lượt khách, tăng 8,2 %, tăng mạnh do tăng trưởng mạng lưới hệ thống xe buýt và xe buýt liên tỉnh ; tỷ trọng số lượt khách. km chiếm 64,6 %, tăng 9,2 %. Vận chuyển hành khách bằng đường không chiếm 0,5 % về số khách, tăng 23,9 % so với năm trước và chiếm 20 % số khách. km, tăng 27,7 %. Riêng luân chuyển hành khách bằng đường tàu giảm 1,3 % về số lượt khách và chỉ tăng 4,7 % về số lượt khách. km so với năm 2004 .

Bảng 8. Vận chuyển hành khách năm 2005

 

  Nghìn khách Triệu  khách.km Tổng số = 100 (%) Tốc độ tăng so với 2004 (%)
  Nghìn khách Triệu  khách.km Nghìn khách Triệu  khách.km
Tổng số 1270443,1 53297 100,0 100,0 7,5 11,8
Đường sắt 12778,0 4582,0 1,0 8,6 -1,3 4,7
Đường biển 2523,1 189,2 0,2 0,4 7,2 6,2
Đường sông 169336,2 3419,8 13,3 6,4 3,2 5,5
Đường bộ 1079466,8 34436 85,0 64,6 8,2 9,2
Hàng không 6339,0 10670 0,5 20,0 23,9 27,7

Vận chuyển hàng hoá năm 2005 ước tính đạt 324,2 triệu tấn và 81,1 tỷ tấn. km, so với năm 2004, tăng 7,3 % về tấn và tăng 6,7 % về tấn. km. Vận chuyển hàng hoá thuộc khoanh vùng phạm vi ngoài nước cũng như trong nước tính theo cả hai chỉ số tấn và tấn. km đều tăng ở mức 6-7 %. Trong những ngành luân chuyển, luân chuyển hàng hoá bằng đường thủy chiếm 10,2 % số tấn và 80,7 % số tấn. km, tăng 5,7 về tấn và tăng 6,3 % về tấn. km ; luân chuyển bằng đường đi bộ chiếm 66,3 % và 10,8 %, tăng 8,3 % và tăng 9,2 % ; luân chuyển bằng đường sông chiếm 20,3 % và 4,6 %, tăng 6,4 % và tăng 4,8 % ; riêng luân chuyển hàng hoá bằng đường tàu giảm 0,4 % về tấn, nhưng tăng tới 7,4 % về tấn. km .
Mặc dù trong năm 2005 giá xăng dầu tăng cao, gây áp lực đè nén tăng cước phí vận tải đường bộ, nhưng những ngành vận tải đường bộ đã xắp xếp lại hoạt động giải trí hài hòa và hợp lý và hiệu suất cao hơn như mở thêm những tuyến xe buýt liên tỉnh, những tuyến chất lượng cao, tăng chuyến, thay đổi những dịch vụ hỗ trợ, giảm giá cước nhằm mục đích tăng sức cạnh tranh đối đầu giữa những đơn vị chức năng … nên hoạt động giải trí vận tải đường bộ cả năm đã cung ứng được nhu yếu sản xuất và đi lại của dân cư, góp thêm phần tăng trưởng kinh tế tài chính. Tuy nhiên, trật tự bảo đảm an toàn giao thông vận tải trong năm vẫn là yếu tố đáng chăm sóc và cần đ ­ ược khắc phục .
Số lượng khách quốc tế đến Nước Ta trong năm 2005 ước tính đạt 3,47 triệu lượt người, tăng 18,4 % so với năm trước, trong đó khách đến với mục tiêu du lịch 2,04 triệu, tăng 28,9 % ; thăm thân nhân 505,3 nghìn lượt người, tăng 8,1 % ; vì mục tiêu khác 427,6 nghìn lượt người, tăng 20,5 %. Riêng khách vào vì việc làm 493,3 nghìn lượt người, giảm 5,4 % .
Khách đến Nước Ta từ Mỹ 333,6 nghìn lượt người, tăng 22,4 % ; từ Nước Hàn 317,2 nghìn lượt người, tăng 36,1 % ; từ Nhật Bản 320,6 nghìn lượt người, tăng 20 %, từ Đài Loan 286,3 nghìn lượt người, tăng 11,5 % ; từ Cam-pu-chia 186,5 nghìn lượt người, tăng 105,4 % ; từ Ô-xtrây-li-a 145,4 nghìn lượt người, tăng 13 %, từ Pháp 126,4 nghìn lượt người, tăng 21,5 %. Đáng chú ý quan tâm là trong năm nay, khách vào tăng mạnh ( trên 50 % ) ở 1 số ít nước có tỷ trọng không lớn như từ Xin-ga-po tăng 52,5 % ; từ Vương Quốc của nụ cười tăng 56,7 % ; từ Nga tăng 94,3 % ; từ Tây Ban Nha tăng 76 %. Riêng khách đến từ CHND Trung Hoa 752,6 nghìn lượt người, vẫn chiếm tỷ suất cao nhất trong số khách đến, nhưng lại giảm 3,3 % so với năm trước .

  1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ XÃ HỘI
  2. Dân số và lao động

Dân số trung bình năm 2005 của cả nước ước tính khoảng chừng 83,12 triệu người, tăng 1,33 % so với năm 2004, trong đó dân số nam 40,86 triệu người, chiếm 49,2 % ; dân số nữ 42,26 triệu người, chiếm 50,8 %. Dân số khu vực thành thị là 22,23 triệu người, chiếm 26,8 % và dân số nông thôn 60,89 triệu người, chiếm 73,2 % .

Bảng 9: Dân số trung bình 2001-2005

Nghìn người

2001 2002 2003 2004 2005
        Cả nước 78685,8 79727,4 80902,4 82032,3 83121,7
Thành thị 19469,3 20022,1 20869,5 21591,2 22235,1
Nông thôn 59216,5 59705,3 60032,9 60441,1 60886,6

Lao động đang thao tác trong những ngành kinh tế tài chính tại thời gian 1/7/2005 là 42,71 triệu người, tăng 1,12 triệu người ( + 2,7 % ) so với năm 2004, trong đó lao động đang thao tác trong khu vực Nhà nước chiếm 9,6 % ; lao động khu vực ngoài Nhà nước chiếm 88,8 % và lao động khu vực có vốn góp vốn đầu tư quốc tế chiếm 1,6 %. Theo ngành kinh tế tài chính, tỷ trọng lao động khu vực nông, lâm nghiệp, thuỷ sản chiếm 56,8 % ; khu vực công nghiệp, kiến thiết xây dựng 17,9 % và khu vực dịch vụ 25,3 % .
Tỷ lệ thất nghiệp năm 2005 liên tục giảm ; tính đến giữa năm 2005, tỷ suất thất nghiệp của lao động trong độ tuổi ở khu vực thành thị là 5,3 %, giảm 0,3 điểm Xác Suất so với năm 2004, đồng thời đạt tiềm năng kế hoạch 5 năm 2001 – 2005 về giảm tỷ suất thất nghiệp khu vực thành thị xuống dưới 6 % vào cuối năm 2005 .

  1. Đời sống dân cư

Đời sống dân cư năm nay nhìn chung không thay đổi ; nhiều ngành và địa phương đã có những giải pháp tích cực góp thêm phần cải tổ đời sống người lao động như tạo việc làm không thay đổi, tăng thu nhập cho người lao động ; triển khai trợ cấp, phát thưởng kịp thời … Bên cạnh đó, việc kiểm soát và điều chỉnh mức lương tối thiểu cũng đã tác động ảnh hưởng tích cực và cải tổ đáng kể đời sống cán bộ, viên chức và người hưởng lương. ở nông thôn, đời sống của đại đa số nông dân không thay đổi và từng bước được cải tổ do sản xuất nông nghiệp liên tục tăng trưởng ; giá nông sản, thực phẩm tăng ; đồng thời nhiều địa phương thực thi hiệu suất cao chương trình xoá đói giảm nghèo. Đến nay, tỷ suất hộ nghèo của cả nước và nhiều địa phương liên tục giảm, nhiều tỉnh đã không còn hộ đói. Tuy nhiên, do tác động ảnh hưởng của dịch cúm gia cầm và thực trạng hạn hán lê dài cũng như tác động ảnh hưởng của mưa, bão, lũ ở một số ít địa phương nên đời sống một bộ phận dân cư còn gặp nhiều khó khăn vất vả, thiếu đói giáp hạt vẫn xảy ra ở 1 số ít địa phương và tập trung chuyên sâu đa phần tại những tỉnh Tây Bắc, Bắc Trung Bộ và Tây Nguyên. Để tương hỗ những đối tượng người tiêu dùng thiếu đói khắc phục khó khăn vất vả, trong năm 2005 những cấp, những ngành, những tổ chức triển khai, cá thể đã trợ giúp trên 22 nghìn tấn lương thực và 13,3 tỷ đồng .
Công tác đền ơn đáp nghĩa, chăm nom thương bệnh binh, mái ấm gia đình liệt sĩ, người có công và những đối tượng người dùng chủ trương, đối tượng người tiêu dùng xã hội được những cấp, những ngành chăm sóc thực thi. Việc hoạt động kiến thiết xây dựng nhà tình nghĩa, nhà tình thương được hưởng ứng và triển khai tích cực, góp thêm phần cải tổ đời sống cho người có công, đối tượng người tiêu dùng chủ trương, những hộ nghèo, vùng nghèo. Theo số liệu sơ bộ, đã có 11 nghìn nhà tình nghĩa và trên 8,1 vạn nhà tình thương được được thiết kế xây dựng và chuyển giao trong năm 2005. Một số tỉnh ở Tây Nguyên đã có chủ trương tương hỗ đất sản xuất, đất ở, nhà tại, nước sạch cho những hộ nghèo trong đồng bào dân tộc bản địa .

  1. Văn hoá thông tin, thể dục thể thao

Hoạt động văn hoá thông tin năm 2005 tập trung thực hiện tốt công tác thông tin truyên truyền các nhiệm vụ chính trị của đất nước và tổ chức thành công các ngày lễ lớn của dân tộc; các hoạt động văn hoá dân gian và giao lưu văn hoá. Trong năm 2005, đã tổ chức thành công các ngày kỷ niệm trọng đại của đất nước mà đặc biệt là lễ mít tinh, diễu binh, diễu hành quần chúng kỷ niệm 60 năm Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2/9 tại Quảng trường Ba Đình lịch sử với trên 1 vạn người tham dự. Trong năm cũng đã tổ chức thành công các lễ hội tôn vinh các giá trị văn hoá cộng đồng các dân tộc Việt Nam; tổ chức triển lãm Mỹ thuật toàn quốc 5 năm 2001-2005… Nhiều hoạt động và sự kiện văn hoá khác diễn ra trong năm  như: Không gian văn hoá cồng chiêng Tây Nguyên được UNESCO công nhận Kiệt tác truyền khẩu và di sản phi vật thể của nhân loại; triển lãm “Kho tàng nghệ thuật Việt Nam – Điêu khắc Chămpa” lần đầu tiên tổ chức tại Pháp; các hoạt động giao lưu văn hoá thông tin với các nước nhân kỷ niệm 60 năm thành lập nước; các hoạt động chấn chỉnh tiêu cực trong quán bar, nhà hàng, karaoke, vũ trường; ban hành quy chế thực hiện nếp sống văn minh trong việc tang và lễ hội…

Phong trào “ Toàn dân đoàn kết thiết kế xây dựng đời sống văn hoá ” tăng trưởng mạnh, có tác động ảnh hưởng tích cực đến đời sống văn hoá, xã hội của nhân dân. Các địa phương trong cả nước và Ban chỉ huy cuộc hoạt động ở Trung ương đã tổ chức triển khai tổng kết 5 năm trào lưu “ Toàn dân đoàn kết kiến thiết xây dựng đời sống văn hoá ” với nhiều nổi bật tiên tiến và phát triển được tổng kết và nhân rộng. Hiện nay, cả nước có khoảng chừng 12,5 triệu mái ấm gia đình được công nhận là mái ấm gia đình văn hoá .
Công tác thanh tra, kiểm tra văn hoá liên tục được tăng nhanh với nhiều đợt thanh tra, kiểm tra những cơ sở kinh doanh thương mại dịch vụ văn hoá. Đã thực thi kiểm tra trên 21 nghìn lượt cơ sở kinh doanh thương mại hoạt động giải trí dịch vụ văn hoá, phát hiện và giải quyết và xử lý 11,8 nghìn lượt cơ sở vi phạm, trong đó rút giấy phép và đình chỉ hoạt động giải trí 141 cơ sở ; thu giữ 12,7 triệu băng, đĩa những loại, 75 nghìn cuốn sách, tháo dỡ 16,5 nghìn băng rôn, biển quảng cáo, biển hiệu vi phạm …, xử phạt hành chính 12,3 tỷ đồng. Công tác báo chí truyền thông xuất bản tăng trưởng cả về số lượng và chất lượng. Sơ bộ năm 2005, đã xuất bản 17,1 nghìn cuốn sách với 240,2 triệu bản sách .

Hoạt động thể dục thể thao trong năm tập trung vào các hoạt động thể dục thể thao quần chúng, chuẩn bị và tham dự Đại hội Thể thao Đông Nam Á lần thứ 23 (SEA Games 23) tại Phi-líp-pin; chuẩn bị lực lượng tham dự ASIAD 15 tại Doha, Quatar vào năm 2006 và Olimpic 2008 tại Bắc Kinh, Trung Quốc.

Thể dục thể thao quần chúng : Trong năm 2005, ngành Thể dục Thể thao liên tục chỉ huy triển khai cuộc hoạt động “ Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại ” với nhiều hình thức, nội dung mới, đồng thời tăng cường đưa những hoạt động giải trí thể dục thể thao về cơ sở. Uỷ ban Thể dục Thể thao đã phối hợp với Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh ký kết Chương trình tăng nhanh trào lưu “ Khoẻ để lập nghiệp và giữ nước ” ; với Uỷ ban Dân tộc ký kết Chương trình “ Đẩy mạnh những hoạt động giải trí Thể dục thể thao vùng đồng bào dân tộc thiểu số và vùng núi quy trình tiến độ 2005 – 2010 ” ; với Bộ Văn hoá tin tức và Tổng Liên đoàn Lao động Nước Ta ký kết Chương trình phối hợp hoạt động giải trí quá trình 2006 – 2010 và cùng những cấp, những ngành tổ chức triển khai 25 giải thể thao quần chúng và 11 giải thể thao dân tộc bản địa. Ngoài ra, công tác làm việc tổ chức triển khai Đại hội Thể dục Thể thao những cấp hướng tới Đại hội Thể dục Thể thao toàn nước lần V năm 2006 cũng đang được tiến hành. Đến nay, cả nước đã có 80 % số đơn vị chức năng cấp xã tổ chức triển khai xong Đại hội Thể dục Thể thao ; 60 % đơn vị chức năng cấp huyện và 11 tỉnh, thành phố tổ chức triển khai xong Đại hội Thể dục Thể thao cấp tỉnh .
Về thể thao thành tích cao, trong năm 2005 ngành Thể dục Thể thao đã tập trung chuyên sâu chỉ huy công tác làm việc sẵn sàng chuẩn bị và tham gia tranh tài tại SEA Games 23 tại Phi-líp-pin và đã đạt thành tích cao. Tại SEA Games 23, đoàn thể thao Việt nam đã tham gia tranh tài ở 33/40 môn và đã xuất sắc giành vị trí thứ 3 toàn đoàn với 71 huy chương vàng ; 68 huy chương bạc và 89 huy chương đồng. Cũng tại Đại hội Thể thao Người khuyết tật Khu vực Đông Nam Á lần thứ 3 ( ASEAN Paragames 3 ) vừa kết thúc tại Phi-líp-pin, đoàn thể thao người khuyết tật Nước Ta đã bảo vệ thành công xuất sắc ngôi vị thứ 2 toàn đoàn. Ngoài ra, cũng đã tham gia nhiều giải thể thao quốc tế và giành được 380 huy chương những loại .

  1. Giáo dục và đào tạo

Tình hình khai giảng năm học 2005 – 2006 :
Năm học 2005 – 2006, cả nước có 401,6 nghìn trẻ nhỏ đi nhà trẻ, giảm 5 % so với năm trước và đạt 8,6 % tổng số trẻ nhỏ từ 0-2 tuổi ; 2558,2 nghìn học viên mẫu giáo, tăng 9,7 % và đạt 63,4 % số trẻ nhỏ từ 3-5 tuổi. Số học sinh tiểu học là 7318,2 nghìn em, giảm 5,5 % so với năm học trước ; học viên trung học cơ sở 6691,5 nghìn em, tăng 1,1 % và học viên trung học phổ thông là 2993,7 nghìn em, tăng 8,4 %. Cả nước có khoảng chừng 353,6 nghìn giáo viên tiểu học ; 300,9 nghìn giáo viên trung học cơ sở và 118,2 nghìn giáo viên trung học phổ thông. So với định mức chuẩn, cả nước còn thiếu khoảng chừng 20,2 nghìn giáo viên trung học cơ sở và 21,8 nghìn giáo viên trung học phổ thông .
Năm học này cả nước có 239 nghìn phòng học tiểu học, tăng 1,5 % so với năm trước ( Số phòng học bền vững và kiên cố là 95,9 nghìn phòng, tăng 4,35 % ) ; 130 nghìn phòng học trung học cơ sở, tăng 8,5 % ( Kiên cố là 79,6 nghìn phòng, tăng 3,9 % ) ; 59,1 nghìn phòng phòng học trung học phổ thông, tăng 25,7 % ( Kiên cố là 45,9 nghìn phòng, tăng 21,1 % ) .
Giáo dục đào tạo ĐH, cao đẳng và dạy nghề
Năm 2005 cả nước có 149 trường ĐH, học viện chuyên nghành, khoa thường trực và 136 trường cao đẳng tổ chức triển khai tuyển sinh với tổng số thí sinh dự thi trong cả 2 đợt là 935,3 nghìn thí sinh, bằng 74,9 % số thí sinh ĐK. Số thí sinh trúng tuyển nguyện vọng 1 là 158 nghìn người, trong đó ĐH là 110,9 nghìn người và cao đẳng là 47,1 nghìn người. Năm nay có 1752 học viên là những em đoạt giải những kỳ thi vương quốc và năng khiếu sở trường ĐK tuyển thẳng vào ĐH, cao đẳng .
Trong năm 2005, Tổng cục Dạy nghề đã tuyển mới 230 nghìn học viên học nghề dài hạn, tăng 13,9 % so với năm 2004 ; số học viên học nghề thời gian ngắn là 977 nghìn người, tăng 2,9 %. Bên cạnh đó, đã tổ chức triển khai dạy nghề cho lao động nông thôn, dân tộc thiểu số và người tàn tật ; bộ đội xuất ngũ ; dạy nghề cho lao động thuộc những khu vực quy đổi tiềm năng sử dụng đất với kinh phí đầu tư hàng trăm tỷ đồng. Mạng lưới cơ sở dạy nghề tăng trưởng nhanh, đã xoá được thực trạng trắng trường nghề ở những địa phương. Đến nay cả nước có 1691 cơ sở dạy nghề, trong đó 212 trường ĐH, cao đẳng, THCN có dạy nghề ; 236 trường dạy nghề ; 404 TT dạy nghề và 839 cơ sở dạy nghề khác .

  1. Y tế

Tình hình suy dinh dưỡng của trẻ em: Theo tính toán sơ bộ, tỷ lệ suy dinh dưỡng của trẻ em dưới 5 tuổi (cân nặng theo tuổi) chung cả nước năm 2005 là 25,2%, giảm 1,4 điểm phần trăm so với năm 2004, trong đó khu vực thành thị là 19,6% (-1,6 điểm phần trăm); khu vực nông thôn 29,8% (-1 điểm phần trăm) và khu vực miền núi là 37,5% (-2,2 điểm phần trăm). Tỷ lệ suy dinh dưỡng chiều cao theo tuổi chung cả nước là 29,8%, giảm 0,9 điểm phần trăm so với năm 2004 và tỷ lệ suy dinh dưỡng cân nặng theo chiều cao là 7,6%, giảm 0,1 điểm phần trăm.

Tình hình dịch bệnh

Bệnh sốt rét : Trong tháng 12 có 8,1 nghìn trường hợp mắc bệnh, nâng số người bị mắc từ đầu năm đến nay là 88,8 nghìn trường hợp, trong đó 13 người đã tử trận. So với năm 2004 số người mắc bệnh giảm 23,6 % ; số tử trận giảm 38,1 % .
Bệnh sốt xuất huyết : Trong tháng 12 có 3 nghìn trường hợp mắc bệnh, trong đó 11 người đã tử trận. Tính từ đầu năm đến nay, cả nước có 49,4 nghìn trường hợp mắc bệnh, trong đó 51 người tử trận, giảm 32,7 % số người mắc bệnh và giảm 49,5 % số người tử trận so với năm 2004 .
Bệnh viêm não vi rút : Trong tháng 12 có 116 trường hợp mắc bệnh và không có trường hợp nào tử trận. Tính từ đầu năm đến nay đã có 1,2 nghìn trường hợp mắc bệnh, trong đó 50 người tử trận. So với năm 2004, số mắc bệnh giảm 51 % và số trường hợp tử vong giảm 58,7 % .
Bệnh cúm tuýp A-H5N1 : Tổng số trường hợp mắc bệnh cúm tuýp A-H5N1 trong cả nước từ đầu năm đến nay là 66 trường hợp, trong đó 22 người đã tử trận .

 Tình hình nhiễm HIV/AIDS: Trong tháng 12 phát hiện thêm trên 800 trường hợp nhiễm HIV, nâng tổng số người nhiễm HIV trong cả nước đến 19/12/2005 lên 103,9 nghìn người, trong đó có 17,2 nghìn bệnh nhân AIDS và 10 nghìn người đã chết do AIDS.

Tình hình ngộ độc thực phẩm : Trong tháng đã xảy ra trên 200 trường hợp bị ngộ độc thực phẩm và không có người tử trận. Tổng số người bị ngộ độc thực phẩm từ đầu năm đến 16/12/2005 là 4,3 nghìn trường hợp, trong đó 50 người đã tử trận .

  1. Tai nạn giao thông

Trong 11 tháng năm 2005, trên khoanh vùng phạm vi cả nước đã xảy ra 13,3 nghìn vụ tai nạn đáng tiếc giao thông vận tải, làm chết 10,4 nghìn người và làm bị thương 11 nghìn người. So với 11 tháng năm 2004, số vụ tai nạn đáng tiếc giao thông vận tải giảm 17,9 % ; số người chết giảm 6 % và số người bị thương giảm 23,5 %. Bình quân 1 ngày trong 11 tháng qua, trên địa phận cả nước xảy ra 39,7 vụ tai nạn thương tâm giao thông vận tải, làm chết 31 người và làm bị thương 33 người. So với trung bình cùng kỳ năm trước, mỗi ngày giảm gần 9 vụ tai nạn thương tâm ; số bị chết giảm 2 người và số bị thương giảm 10 người. Tai nạn giao thông vận tải trong 11 tháng qua đa phần xảy ra trên đường đi bộ với số vụ tai nạn thương tâm chiếm 96,4 % ; số người chết chiếm 97,1 % và số người bị thương chiếm 97,8 %. Mặc dù tai nạn đáng tiếc giao thông vận tải đã giảm đáng kể cả về số vụ tai nạn thương tâm, số người chết và bị thương so với cùng kỳ năm 2004, nhưng vẫn ở mức cao quý về số vụ, số người chết và bị thương và đã xảy ra nhiều vụ tai nạn thương tâm giao thông vận tải đặc biệt quan trọng nghiêm trọng, làm chết và bị thương nhiều người .

  1. Thiệt hại do thiên tai

Năm 2005 đã xảy ra mưa lớn, bão, lũ quét, áp thấp nhiệt đới, lở đất tại nhiều địa phương trong cả nước gây thiệt hại lớn và người và tài sản như bão và lở đất ở các tỉnh miền Bắc; lũ tại đồng bằng sông Cửu Long; mưa lũ tại các tỉnh Nam Trung Bộ. Theo báo cáo sơ bộ, thiên tai đã làm trên 350 người chết, mất tích và khoảng 400 người bị thương; 12,5 nghìn mét đê bị vỡ, bị cuốn trôi; khoảng 650 km đê bị sạt lở; 180 công trình phai đập cống bị phá huỷ; 212 tàu thuyền bị chìm, phá huỷ; 640 km đường xe cơ giới bị sạt lở, cuốn trôi; 1,5 nghìn cột điện trung và cao thế bị gãy, bị đổ. Thiên tai cũng đã làm 450 nghìn ha lúa bị ngập, hư hại, trong đó mất trắng gần 50 nghìn ha; 44,5 nghìn ha diện tích nuôi trồng thuỷ sản bị thiệt hại; trên 750 phòng học và 9,2 nghìn ngôi nhà bị sập đổ, cuốn trôi; hàng chục vạn nhà bị tốc mái và nhiều công trình kinh tế-xã hội khác bị ảnh hưởng. Tổng giá trị thiệt hại ước tính 6,5 nghìn tỷ đồng, trong đó Nam Định thiệt hại khoảng 1,9 nghìn tỷ đồng; Thanh Hoá 1,3 nghìn tỷ đồng; Tuyên Quang 1,1 nghìn tỷ đồng….

Khái quát lại, kinh tế-xã hội năm 2005 liên tục tăng trưởng và không thay đổi. Các chỉ tiêu hầu hết của nền kinh tế tài chính và những nghành then chốt đạt hiệu quả cao hơn so với năm trước. Tổng sản phẩm trong nước tăng 8,4 % là vận tốc tăng tương đối cao so với vận tốc tăng những năm gần đây, do sự ngày càng tăng khả quan của những ngành sản xuất, dịch vụ. Mặt khác trong năm 2005 do sản xuất tăng trưởng đã tạo điều kiện kèm theo tăng tiêu dùng của dân cư, tăng chi ngân sách Nhà nước, tăng góp vốn đầu tư và tăng xuất khẩu nhanh hơn nhập khẩu. Giá tiêu dùng tuy tăng cao nhưng giữ ở mức giao động vận tốc tăng trưởng kinh tế tài chính. Tình hình xã hội không thay đổi ; văn hoá, y tế, giáo dục liên tục tăng trưởng .
Mức tăng trưởng trong năm 2005 đã góp thêm phần tích cực vào triển khai xong tiềm năng tăng trưởng trung bình 7,5 % / năm đã được đề ra trong kế hoạch tăng trưởng kinh tế tài chính xã hội 5 năm 2001 – 2005, tạo tiền đề vững chãi cho cả nước bước vào triển khai kế hoạch tăng trưởng kinh tế tài chính xã hội 2006 – 2010. Tuy nhiên, chất lượng tăng trưởng, hiệu suất cao góp vốn đầu tư, chuyển dời cơ cấu tổ chức kinh tế tài chính chung và cơ cấu tổ chức trong nội bộ từng ngành kinh tế tài chính, cơ cấu tổ chức xuất khẩu và nâng cao sức cạnh tranh đối đầu của loại sản phẩm nước ta không chỉ trên thị trường quốc tế mà ngay ở trên thị trường trong nước vẫn là những thử thách lớn so với nền kinh tế tài chính nứơc ta trong những năm tới, nhất là trong năm 2006 khi thực thi AFTA và ngày càng hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế tài chính quốc tế, cũng như sẵn sàng chuẩn bị tham gia WTO.

Biểu số liệu năm 2005

Đánh giá post
0/5 (0 Reviews)

Related Posts

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *